Phiên âm Hán – Việt và phiên thiết Hán – Việt Phiên_âm_Hán_–_Việt

Một số ý kiến cho rằng cách đọc Hán – Việt là dựa vào cách đọc theo phiên thiết. Các ý kiến này cho rằng âm Hán – Việt không phải do người Việt đặt ra mà là các âm phiên thiết, ghi trong các cuốn tự điển Hán. Theo cách lý giải này, một số tác giả cực đoan còn cho rằng, những từ đọc không đúng với phiên thiết là sai và phải bị loại bỏ khỏi các từ Hán Việt.

Nhiều ý kiến phân biệt rõ ràng giữa phiên âm Hán – Việt và phiên thiết Hán – Việt. Phiên âm là bản thân âm (cách đọc) Hán – Việt của chữ Hán, còn phiên thiết chỉ là một trong những phương pháp ghi cách đọc chữ Hán do người Trung Quốc đặt ra để người đọc biết cách đọc. Phiên thiết là dùng âm của hai chữ khác (được coi là đã biết cách đọc) ghép lại để chú âm cho một chữ thứ ba, nghĩa là lấy phụ âm đầu (thanh mẫu) của chữ thứ nhất ghép với vần (vận mẫu) của chữ thứ hai đọc nối liền lại, còn thanh điệu thì tuân theo một quy tắc nhất định. Phiên thiết của người Trung Quốc được chuyển (quy chiếu) sang âm Hán – Việt và lấy đó làm chuẩn để đọc âm Hán – Việt.

Trước khi có cách dùng ký tự Latin để ghi cách đọc chữ Hán, thì ngoài cách phiên thiết, còn có các phương pháp khác như chú âm bằng cách dùng chữ đồng âm, gọi là "trực âm" (直音), hay dùng những chữ có âm gần giống, gọi là "độc nhược" (讀若), "độc như" (讀如) hay "độc vi" (讀為).

Ngoài ra, còn phương pháp chú âm dùng 37 ký tự dựa vào chính chữ Hán gọi là "chú âm phù hiệu" (chữ Hán phồn thể: 注音符號; chữ Hán giản thể: 注音符号; bính âm: Zhùyīn fúhào), được soạn ra vào đầu thế kỷ XX, hiện nay thỉnh thoảng vẫn được sử dụng nhưng ít phổ biến hơn bính âm, chủ yếu sử dụng tại Đài Loan.

Ngoài ra, không phải bao giờ phiên âm Hán – Việt cũng trùng với phiên thiết Hán – Việt, nghĩa là âm Hán – Việt không đọc theo phiên thiết Hán – Việt, vì phiên thiết của người Trung Hoa dùng cho người Trung Hoa chứ không phải dùng cho người Việt.

  • 因 theo phiên thiết là ân, nhưng xưa nay người Việt vẫn đọc là nhân,
  • 一 theo phiên thiết là ất, nhưng xưa nay vẫn đọc là nhất,
  • 比 theo phiên thiết là bỉ, nhưng xưa nay vẫn đọc là tỉ
  • 扇 theo phiên thiết là thiến, nhưng xưa nay vẫn đọc là phiến
  • 轟 theo phiên thiết là hoanh, nhưng xưa nay vẫn đọc là oanh
  • 昇 theo phiên thiết là thưng, nhưng xưa nay vẫn đọc là thăng[5]
  • v.v.

Phiên thiết Hán Việt có thể giúp định âm Hán Việt của một số từ Hán chưa có âm tương đương trong các tự điển Hán – Việt của tiếng Việt. Tuy vậy, phiên thiết trong tiếng Hán cũng khá phức tạp, vì là âm đọc trong một giai đoạn lịch sử và của một vùng lãnh thổ trong tiến trình ngữ âm của Hán ngữ, tạo nên một hệ thống thiết vận không ổn định nên có thể góp phần làm phức tạp việc định âm Hán – Việt cho các từ Hán. Do đó, có thể tồn tại các kiểu phiên thiết khác nhau.